Trang

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2013

Trăng lạnh như sương - Chương 2

TAN NÁT BÙN ĐẤT HÓA BỤI BAY

Sau một đợt tuyết rơi, từ đài xanh, những cánh mai chầm chậm hé mở đôi ba cành; thậm chí đã vòng cách một hành lang rất dài rồi mà thứ hương thoảng thoảng nhẹ nhàng mà thấm hơi lạnh kia vẫn tràn vào khứu giác.


Cô đại nương bưng trên tay một chiếc mâm gỗ sơn nhỏ, ở giữa là chiếc bát vẽ hoa văn đựng đầy nước thuốc đen sánh,  một làn khói nghi ngút tỏa trên miệng bát. Ly nhi thấy bà bưng thuốc lại vội giúp bà vén rèm lên.

Đại nương họ Cô này vốn là con gái của một lương y ở Lỗ Châu, về sau được tuyển vào cung làm cung nữ. Thời điểm năm hai mươi lăm niên hiệu Thái Bình chư hoàng tử được cấp phủ đệ, bà bị điều đến hầu hạ Duệ Thân Vương, bởi vì biết được chút y học nên người ta cắt làm quản lý dược thảo trong kho thuốc. Tính tính bà nhã nhặn hiền hòa lại cẩn thận, ấn lệ đến khoảng hai mươi lăm tuổi sẽ được tự do trở về nhà. Thế nhưng ai ngờ, đến thời hạn trở về năm ấy, Lỗ Châu trải qua một trận đại dịch khủng khiếp đã lấy đi tính mạng của toàn bộ thân quyến trong gia đình bà, khiến bà chỉ còn trơ trọi một mình không nơi nương tựa, đành cầu xin Vương phủ cho mình ở lại. Tính cho đến bây giờ cũng đã hơn hai mươi năm, ngày nay thuộc hàng cao tuổi, cho nên mọi người đều gọi bà một tiếng “Cô đại nương”.

Ly nhi một mặt vừa vén rèm , một mặt nói nho nhỏ với bà:

” Ngày hôm nay lại vẫn không chịu ăn cơm, tôi xem bát thuốc này đại nương làm cũng uổng công.”

Cô đại nương bước vào trong gian phòng, quả nhiên thấy Như Sương vẫn ngồi kia không nhúc nhích, mí mắt cụp xuống, lặng yên như một bức tượng. Cô đại nương biết thường mỗi lần nàng ngồi như vậy dễ cũng kéo dài cả hai canh giờ, ánh mắt thất thần nhìn vào khoảng không vô định, không một chút sinh khí, hai con người đờ đẫn mờ mịt không tiêu cự, cũng không biết nàng đang nghĩ gì. Cô đại nương đặt chiếc mâm rồi bưng bát thuốc lên, nói:

“Cô nương uống thuốc đi, thuốc này phải uống nhân lúc còn nóng mới không bị đắng.”

Như Sương tựa hồ không nghe thấy gì, cũng chẳng buồn ngước mắt nhìn. Qua hai ngày Cô đại nương đã biết tính nàng, cũng không trách móc gì, thở dài, nói:

” Cô nương, trên đời quan trọng nhất là “giữ được rừng xanh chẳng lo không có củi đốt”, dù việc có lớn bằng trời, còn sống thì tức còn hy vọng.”

Như Sương chẳng động mảy may, ngay cả lông mi cũng chưa từng rung một lần.

Từng cho rằng bản thân hẳn là phải chết không còn nghi ngờ, ai dè một chân đã bước vào quỷ môn quan lại hồi sinh nhân thế. Cần cổ nàng vẫn còn hằn sâu vết bầm tím, đến nay chưa hề mờ đi, làm cho yết hầu của nàng lúc nào cũng có cảm giác bị thiêu đốt trong lửa nóng, như đã bị vỡ mất rồi. Nếu không phải là vết thương lúc nào cũng phát tác đau đớn, nàng hẳn nghĩ bản thân đã thành một con ma treo cổ, ngẫu nhiên vừa tái sinh trở lại dương gian. Nàng vẫn không thể nào hiểu nổi, vì sao cuối cùng hắn lại thay đổi ý định, giữ lại cho nàng một mạng này.

Sau khi tỉnh dậy,  nàng đã thấy ở nơi đây, nghe nói là Hạ công công đưa nàng đến đây dưỡng bệnh. Cái Ấp Hoa Đài xa xôi này vốn từ trước đến nay không có người ở, mấy gian lầu gác đều bị khóa. Nơi nàng ngụ là mái tây hậu viện, nguyên trước là phòng trực của bọn nô dịch, âm u rất mực. Tuy bày biện đồ đạc đơn sơ nhưng dù sao cũng có giường ấm, lò sưởi, so với chỗ ở ban đầu hẳn nhiên là cách một trời một vực.

Nàng vừa chớm lo không biết tương lai mình rồi sẽ thế nào, lại chợt thấy buồn cười, nàng còn có tương lai sao? Đến chết cũng không được chết cho an ổn, không biết bọn họ còn muốn làm gì nàng nữa đây.

Cô đại nương thấy nàng vẫn như con tò te bằng gỗ, chỉ đành đặt thuốc qua một bên, đoạn nhàn nhã đi qua ngồi cạnh nàng ra chiều muốn hàn huyên đôi câu. Ly nhi biết Cô đại nương đã từng ngồi khuyên nhủ nàng cả hơn nửa canh giờ, nhưng mỗi lần Như Sương đều như không hay biết. Mới đầu Ly nhi còn đứng bên hỗ trợ khuyên giải, song sau hai ngày trăm kế đều bất khả thi cũng chán nản từ bỏ. Nó chỉ ngồi bên ngoài khâu vá, để mặc Cô đại nương trong phòng ngồi khuyên. Quả nhiên nửa canh giờ sau đi vào, thấy Cô đại nương đã miệng đắng lưỡi khô mà Như Sương thì vẫn một mực ngồi kia bất động.

Cô đại nương nhìn thấy Ly nhi tiến vào, chỉ bất lực lắc lắc đầu với nó, đưa tay sờ chén thuốc lạnh ngắt, nói:

” Để tôi đi sắc lại thuốc một lần nữa cho cô nương vậy.”

Bà ra khỏi Ấp Hoa Đài, trở về phòng thuốc, vừa vặn thấy nội quan do Hạ Tiến Hầu sai tới tìm. Bà vội vã đi gặp Hạ Tiến Hầu, rồi đem tình hình của Như Sương một mực kể lại, thấy Hạ Tiến Hầu có vẻ đăm chiêu bèn nói:

” Hạ công công, mong ngài hãy mau mau đưa ra cái chủ trương, nếu không chỉ e cô nương kia không xong mất.”

Hạ Tiến Hầu suy nghĩ, chỉ đáp:

” Bà cứ về trước, chuyện này ta đã có chủ ý cả rồi.”

Sau khi Cô đại nương đi rồi, Hạ Tiến Hầu trở lại Khuê Bích đường, chính là thư phòng của Duệ Thân Vương, một ngày mới của vị Vương gia luôn bắt đầu ở tại nơi này. Thấy lão tiến vào, gã sai vặt bước đến thì thầm:

” Vương gia vừa thắng Mạnh tiên sinh ván cờ, đang khoái chí lắm .”

Mạnh tiên sinh trong lời của gã sai vặt là khách quý của Duệ Thân Vương tên gọi Mạnh Hành Chi. Hạ Tiến Hầu nghe gã sai vặt nói thế, chợt thay đổi ý định, tự mình bưng khay trà, tiến vào noãn các ở mé đông nội đường; quả nhiên nội quan đang dọn bàn cờ. Duệ Thân Vương tự tay tiếp trà, thấy là Hạ Tiến Hầu, thuận miệng hỏi:

“Ngươi vừa đi đâu về đấy?”

Hạ Tiến Hầu khom lưng đáp:

“Người ở Ấp Hoa Đài vừa báo rằng Mộ cô nương đã mấy ngày nay một giọt nước cũng chưa uống, chỉ e tình hình không tốt.”

Duệ Thân Vương khẽ cau mày, tuồng như bị trà làm phỏng, tiện tay buông chén xuống:

“Cái đồ già ông quả nhiên càng ngày mắt càng sắc nhỉ!”

Hạ Tiến Hầu hoảng hốt quỳ sụp xuống, miệng liên tục kêu "Nô tì đáng chết".

Mạnh Hành Chi thấy một màn như vậy, chỉ khẽ mỉm cười:

” Cái lão khỉ già[1] này, động một tí là cứ đáng chết đáng sống, đến tôi còn phát ngấy, chả trách Vương gia phiền lão như vậy.”

Duệ Thân Vương hắc hắc cười ra tiếng, nói:

“Chúng ta làm một ván nữa.”

Duệ Thân Vương như thường lệ quân đen đi trước, đầu cuộc thì thực lực cả hai vẫn còn ngang ngửa, thế nhưng chỉ đi được hơn mười nước, trên bàn cờ trắng đen hai bên đã ở thế giằng co quyết liệt.

Duệ Thân Vương tay cầm quân cờ mà trầm ngâm mãi vẫn không đi nước nào. Mạnh Hành Chi nói:

“Vương gia rõ ràng đã có kỳ mưu ở trong ngực, cớ sao còn do dự? Chẳng lẽ vương gia không sợ vuột mất thời cơ, cứ để cho củi kiếm ba năm đốt trong một giờ như thế hay sao?”

Duệ Thân Vương đáp:

“Đã bao nhiêu ngày qua, trong lòng ta đăm chiêu suy nghĩ, tiên sinh hẳn cũng rõ. Chính là một ván này, chưa nhất thiết phải đánh vội. Nếu đả thảo kinh xà (đập cỏ làm rắn sợ), chỉ e sẽ rước họa vào thân.”

Mạnh Hành Chi nghe không đổi sắc, nói:

“Vương gia đây quả nhiên mà nói đúng là con người thận trọng. Lão hủ này xằng bậy cũng mạn phép xin Vương gia chớ ngại lấy bụng mình mà đo dạ người.”

Giữa căn gác tĩnh lặng không một tiếng động, trong cái vạc lớn đậy kín đặt trên đất đốt hương Long não[2], làn khói xa xăm lãng đãng tản mát vào tận góc sâu trong noãn các. Thời gian trôi qua thật lâu, Duệ Thân Vương bỗng bật cười:

“ Tiên sinh nói chí phải” .

Rồi tiện tay phá loạn thế cờ, bảo với Hạ Tiên Hầu:

“Đi thôi.”

Hạ Tiến Hầu ngơ ngác hỏi:

“Vương gia muốn đi đâu?”

Duệ Thân Vương chỉ cười lạnh, đưa chân đạp cho lão một phát. Hạ Tến Hầu đau nhe răng trợn mắt, không dám giả bộ hồ đồ nữa, chỉ đành sửa soạn kiệu ấm đưa Vương gia đến Ấp Hoa Đài.

Vừa bước vào trong cửa chính Ấp Hoa đài, hương hoa mai thăm thẳm mà thanh đạm đã bay đến níu kéo bước chân của Duệ Thân Vương, gã nhìn vào bên trong đình nơi những đóa mai nở sớm:

“ Ở đây hoa mai đã nở rồi.”

Hạ Tiến Hầu vừa mới trúng một cú nơi chân đau điếng, không dám trả lời tầm bậy, chỉ thưa “Vâng”. Chợt thấy trên má ướt lạnh, thì ra tuyết lại bắt đầu rơi. Lão không dám lại dài dòng, vội sai người mở ô, giúp Vương gia che gió tuyết.

Chỉ trong chốc lát tuyết đã rơi nặng hạt, dường như là từng cụm bông cứ lả tả từng đợt vô thanh vô tức đáp xuống trên mặt đất.

Ly nhi khi nghe Vương gia đến, đã sớm đứng nơi cửa chờ đón. Hạ Tiến Hầu hai ngày nay thường xuyên đến Ấp Hoa Đài, thành thục dẫn Vương gia đi ra chái sau. Bên ngoài tuyết trắng lóa mắt, Duệ Thân Vương vừa bước vào phòng, chỉ thấy hai mắt tối sầm, mãi một lúc sau mới nhìn rõ đồ đạc bày biện trong phòng.

Hạ Tiến Hầu khẽ thưa:

“Mộ cô nương ở bên trong ạ.”

Rồi vội đi lên trước vén mành.

Hướng nam căn phòng này đều là cửa sổ lớn được dán giấy hồ trong suốt. Ánh nắng xuyên thấu trải vào trong, làm cả căn phòng còn bừng sáng hơn cả gian ngoài. Trong phòng im ắng tịch mịch, lửa hồng cháy trong lò ngẫu nhiên kêu “tách” một tiếng, ngay cả âm thanh từng hạt tuyết rơi bên ngoài cũng nghe thấy được.

Vừa vào đã bắt gặp Như Sương ngồi ở kia, người mỏng như giấy.

Duệ Thân Vương vừa nhìn thấy khuôn mặt trông nghiêng của nàng đã cảm giác như có chút gì quen thuộc, nhưng quá đỗi mơ hồ, tựa như ký ức kia thực ra chưa hẳn đã từng là sự chân thật. Kỳ thực, ngoại hình của nàng cũng không phải quá giống Mộ phi. Vừa mới động ý nghĩ, trong lòng đã thảng thốt kinh hãi, toàn bộ suy tư trong một khắc nhất thời ngưng trệ, có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn nhớ lại được nữa.

Hạ Tiến Hầu thấy Như Sương vẫn bất động ngồi kia, đành ho khan một tiếng:

“Mộ cô nương, Vương gia tới thăm cô.”

Mí mắt Như Sương vẫn rủ xuống, như thể chưa nghe thấy gì.

Hạ Tiến Hầu không biết làm thế nào, Duệ Thân Vương không chút biểu tình, chậm rãi bước lên phía trước, thanh âm phát ra ung dung bình thản dường không một gợn sóng:

“ Mộ cô nương, hôm nay Hình bộ nhận được báo cáo, ấu đệ của cô là Mộ Doãn vì mắc bệnh thương hàn đã chết trên đường đi lưu đày. Ngày nay dòng máu họ Mộ cũng đã đoạn, chỉ còn lại một mình cô sống sót trên đời này mà thôi.”

Lời gã nói cứ đâm từng chữ vào tai, như muôn vàn con côn trùng vo ve đập cánh ong ong đến đinh tai nhức óc, dội vào cơn hoảng hốt đến mức nàng không còn nghe rõ . . . Mộ Doãn . . . Một Doãn nhi luôn năng động hoạt bát . . . ngay từ khi còn nhỏ đã lớn lên trong quân doanh, theo chân cha anh rong ruổi khắp biên thùy, sống nơi vùng núi Định Lan hàng năm chịu cảnh đói rét, nàng chưa từng nghe cậu hắt xì đến một cái . Thế nhưng hiện thời. . . hiện thời vì mắc bệnh thương hàn. . . đã chết?

Khóe miệng Duệ Thân Vương khẽ nhếch một nét cười nhạt, cặp lông mày càng như dựng đứng:

“Diệt cỏ phải diệt tận gốc, Mộ Doãn hiển nhiên chết không cần bàn cãi. Áp giải cậu ta là một tay tâm phúc của Dự Thân Vương; mà thất đệ ta tâm tư kín đáo, làm việc chắc chắn, hắn sẽ không bao giờ khiến cho hoàng huynh ta phải lo lắng nửa phần. Mộ cô nương, cô hẳn đã minh bạch rồi chứ?”

Như Sương rốt cuộc ngẩng lên nhìn gã, con ngươi sáng đen trong vắt mà phẳng lặng, ánh nhìn lạnh lẽo thấu tâm can làm cho người đối diện không khỏi rùng mình.

Duệ Thân Vương chẳng nói chẳng rằng rút từ trong tay áo một thanh đoản kiếm ánh tinh quang, ném phía dưới chân Như Sương.

Đoản kiếm dài khoảng một thước hai tấc (khoảng 35 cm), bạch quang sáng loáng óng cả trên mặt người, đập vào mắt khiến người ta đủ ớn lạnh, hiển nhiên là thứ vũ khí sắc bén hơn thường.

Con ngươi đen của Như Sương phản xạ ánh hàn quang, như con rối gỗ chợt điểm thêm ngươi, sự giận dữ nho nhỏ mà hiển hiện lóe lên trong đáy mắt. Nàng hít thở một cách hỗn loạn, đôi đồng tử kịch liệt co rút, nhìn chằm chằm nơi chuôi đoản kiếm nọ.

Hắn là ai? Làm sao mà hắn biết được? Hắn rốt cuộc là người như thế nào?

Hạ Tiến Hầu đến thở cũng không dám, chỉ trơ mắt nhìn Duệ Thân Vương. Khóe miệng của gã lại hàm chứa một chút ý cười mỉa mai nhàn nhạt, dường như đã nhìn thấu một cuộc đấu tranh tinh thần đang diễn ra.

Như Sương chậm chạp vươn tay nắm chặt đoản kiếm, chuôi kiếm lạnh như băng áp chặt vào lòng bàn tay nóng bỏng của nàng, làm nảy sinh ra một cảm xúc khác thường.

Cây đoản kiếm này, vì cớ gì lại ở trong tay hắn?

Nàng nâng mắt lên như muốn nhìn cho kỹ kẻ đối diện, hận thù bao lâu bị đè nén giống như một ngọn lửa bừng bừng bốc lên, bùng nổ! Cha đã chết, mẹ đã chết, anh cả đã chết, vú nuôi đã chết, Tiểu Hoàn đã chết, ngay cả Doãn Nhi giờ cũng đã chết! Nàng còn sống thì có ý nghĩa gì? Cả đời này, nàng đã sớm không thể đợi được, nàng đã sớm nên chết đi.
Giết hắn! Giết hắn!

Cơn giận dữ cuồng loạn đẩy nàng bật dậy, lao lên nhắm thẳng vào ngực gã mà đâm.

Duệ Thân Vương chỉ hơi né mình, nàng không kịp thu thế, cả ngưới cứ theo quán tính lao về trước. Vốn mấy ngày này nàng đã không ăn uống chút gì, như dầu hết đèn tắt, lập tức ngã quỵ.

Đoản kiếm rơi đánh keng một tiếng trên đất.

Duệ Thân Vương cười lạnh:

“Mộ đại tướng quân sinh thời oai phong lẫm liệt, không ngờ lại sinh được một đứa con gái ngu không ai bằng như nhà ngươi.”

Như Sương chỉ cảm thấy đôi tai ù đi, phải qua một hồi lâu, nàng mới thoáng cử động cánh tay. Vừa nãy vì dùng sức quá, phía trên cổ tay ma sát với mặt đất tróc một mảng da lớn, vết thương đau như bị đốt. Thế nhưng sự đau đớn ấy lại làm cho nàng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, bởi, nó nhắc cho nàng nhớ rõ rằng bản thân còn có một mối huyết hải thâm cừu chưa trả. Nàng muốn báo thù, nàng phải báo thù!

Một ý niệm ấy, như máu nóng quay cuồng trong lồng ngực, như sóng trào mãnh liệt xô bờ, ngọn sóng sau lại cao hơn ngọn trước, phong ba bão táp nổi lên khiến nàng không có cách nào khống chế.

Nàng là con gái Mộ gia, nàng mang trong mình dòng máu họ Mộ cứng rắn kiên cường, nàng sẽ không chịu nhu nhược chờ chết, nàng phải báo thù!

Như Sương thở ra từng hơi thở phì phò, cả người co rúm lại. Duệ Thân Vương ra hiệu, Hạ Tiến Hầu vội vàng lấy ra một chiếc lọ bằng bạc, mở nắp dốc một viên thuốc, nhét vào miệng nàng. Nàng không hề phản kháng, cũng không nhổ thuốc ra, để mặc cho nó dần dần tan nơi đầu lưỡi. Trong lòng chấn động cũng dần bình tĩnh trở lại, trong các kinh mạch, máu cũng chậm rãi lưu thông.

Nàng cố gắng ngẩng đầu lên, vì quá suy yếu nên có vẻ nàng muốn nói điều gì mà cất không nên lời. Chỉ có đáy mắt tựa hồ lóe lên trong thoáng chốc.

Nàng hẳn nên dùng máu kẻ thù để tẩy đi máu tươi mà Mộ gia đã đổ xuống, dùng cừu hận làm vũ khí mà trả thù tên hung thủ nàng chưa từng gặp mặt ấy!

Duệ Thân Vương quay lại trước giường ấm thong thả ngồi xuống, gã cách nàng chỉ trong gang tấc, thế nhưng âm thanh vọng lại xa xôi như tự chân trời bay tới:

“Kẻ cô hận nhất, kẻ đã từng chỉ dùng một cái chiếu thư mà đoạt đi vinh hoa trăm đời của Mộ gia, đoạt đi tính mạng của toàn bộ gia quyến của cô, đoạt đi hết thảy những điều tốt đẹp từ tay cô, hắn lại vẫn ngày ngày chễm chệ ngồi trên Kim Loan điện, cô chằng lẽ lại không muốn báo thù ư?”

Khóe miệng nàng khẽ run rẩy, ánh mắt không hề chớp, cứ nhìn chằm chằm vào kẻ đang ngồi trước mắt. Nguyên là ở trong phủ của mình, Duệ Thân Vương chỉ vận trang phục thường ngày, áo gấm thêu chữ phúc như ý, càng tôn lên khuôn mặt dường ngọc tạc, nhìn qua cũng chỉ như một công tử nhà giàu có tầm thường, chỉ có thắt lưng tinh tế dệt bằng gấm vàng đeo một khối ngọc trắng là khiến cho thân phận vương giả quý tộc của gã không lẫn vào đâu được. Theo từng động tác cất tay nhấc chân, ống tay áo thấp thoáng dập dềnh một làn hương Long não, thứ hương ngọt thuần pha trộn vị đắng tinh tế, ngày xưa . . .

Ngày xưa, gian trên trong nhà nàng vẫn thường đốt loại hương thơm mát thượng hạng ấy, ánh mắt nàng lại thêm ảm đạm.

Mà gã, thì lại tủm tỉm ý cười, dường như còn mải quan sát một nhành mai trắng đang lặng lẽ đưa tinh hoa của hương hàn băng tuyết, còn đương ngập ngừng muốn đoán ai đã ngắt được một cảnh xuân sắc về cắm trong chiếc bình này.

Sau cùng nàng mở miệng, giọng nói phát ra khàn khàn đến sợ:

“Ngài muốn như thế nào?”

Duệ Thân Vương dựa lưng trên sạp, thần sắc thản nhiên:

“Mộ cô nương, cái quan trọng là cô muốn sẽ thế nào?”

Mỗi lần hít thở đều thật khó khăn đau đớn tuồng kẻ hấp hối, nàng bấm móng tay thật sâu vào da thịt, từng chữ từng chữ phun ra đều mang theo mối căm thù sâu sắc:

“Giết hắn!”

Duệ Thân Vương cười mà như không cười, rút trong bình một cành hoa mai:

“Mộ cô nương, nên nhớ đó là thiên tử, địa vị tôn quý trên vạn người, cô nếu muốn tạo phản, e rằng nói dễ mà làm khó.”

Tâm trí nàng dần dần minh mẫn, trong mắt cũng đã có thần thái, tựa như ánh lửa tàn chưa chịu tắt đột nhiên chày bùng lên khiến người ta sợ hãi:

“Cũng chỉ biết cậy Vương gia chỉ giáo cho.”

Duệ Thân Vương như không để ý, nghiền nát những cánh hoa còn vương hơi lạnh. Từng sợi từng sợi tơ hoa tinh khiết rách tả tơi theo tay gã lác đác rơi rụng xuống đệm hồng.

“Nếu như bản vương nói sẽ cho cô cơ hội báo thù rửa hận, không biết có thể nhận lại chút báo đáp?”

Nàng chậm rãi ngẩng đầu, giọng khàn đặc khó nghe như trước:

“Đến lúc đó, thiên hạ hẳn đã nằm trong tay Vương gia, chỉ sợ ngài cũng chẳng thèm đếm xỉa đến chút báo đáp nhỏ nhoi của đứa con gái như ta.”

Duệ Thân Vương bật tiếng cười vang, liên tục nói “Được lắm, được lắm” rồi đưa mắt đánh giá nàng từ trên xuống dưới, nói:

“Quả không hổ danh là con gái họ Mộ.”

Cổ họng Như Sương như lại đau nhức, nàng không mảy may phát ra một tiếng động, nhưng trên mặt lại hiện lên một nụ cười khó hiểu.

Duệ Thân Vương lại nói:

“Toàn bộ công việc đều sẽ có người thay cô an bài, cô chỉ cần chú tâm tĩnh dưỡng, chờ có ngày nhận tin tốt.”

Nàng chỉnh đốn trang phục hành lễ, khó khăn thốt ra mấy lời:

“Như Sương đa tạ ân phúc Vương gia.”

Duệ Thân Vương nhẹ cười:

“Như Song? Như đôi như cặp, thật ra là một cái tên hay.”

Gã dường như đã nghe lầm, nàng là Như Sương, trăng lạnh như sương!

Mẹ sinh ra nàng ngày đó, đúng vào đêm mười sáu, cha ôm lấy đứa trẻ sơ sinh xinh đẹp bọc trong tã lót, trông ra ngoài cửa sổ ánh trăng sáng trong tĩnh mịch phủ đầy đất như sương sa, liền lấy tên này đặt cho nàng.

Song cửa sổ ẩn hiện có ánh sáng mờ ảo chiếu vào, nhưng chẳng phải ánh trăng, chỉ là một đợt tuyết lại nổi lên cùng hàn quang lạnh lẽo. Tuyết rơi càng lúc càng lớn, từng hạt đập lên khung cửa sổ.

Nhìn thấy chiếc lọ màu bạc dẹt khắc hoa văn tinh xảo nằm trên bàn trà, nàng chậm rãi vươn tay cầm lấy. Bên trong lọ đều là những viên thuốc màu xanh biếc, tỏa hương lành lạnh.

Nàng nắm chặt chiếc lọ trong lòng bàn tay, cái chất xót lạnh của kim loại thẩm thấu cả vào trong tay nàng. Nàng nhớ lại giọng cười mỉa mai khi nãy của hắn, nàng sẽ cố gắng nhớ  rõ những lời nghe được hôm nay, nàng phải sống, sống thật tốt để chờ cơ hội tới.

Đã là con gái Mộ gia, đến chết còn chẳng sợ, lẽ nào còn sợ sống?

~0~

[1]Nguyên văn "lão Hầu nhi", bởi vì Hạ Tiến Hầu tên là Hầu, cũng có nghĩa là con khỉ.


[2]Long não chiết xuất từ cây long não được dùng để ướp hương, rất quý. Hương của nó mát dịu như tinh dầu bạc hà, khi đốt lên không chỉ thơm ngát mà còn rất ít khói, thậm chí kết hợp với vài thứ thuốc bắc còn có thể chữa nhiều chứng đau đầu.